Đây là tập thơ thứ ba của
nhà thơ Mạc Phương Đình sau hai tập thơ Lời ru của mẹ, Những dòng kỷ niệm. Ba thi
tâp đều do Yêu Thương xuất bản. Cách
trình bày bìa sách và ruột sách thật đẹp. Bìa màu lục nõn, hình màu hoa dã tưởng
(không biết là hoa gì) màu cam lan ra chót đuôi màu hoàng cúc trên
nền lục đậm lan vào trong màu tím tươi và màu mạ non. Chữ ru người màu trắng, chữ ru đời
màu hoàng yến. Những trang trong của thi tập màu khói lam chập chờn dáng khói hình sương
màu bạch phấn. Đó là công trình của họa sĩ Huỳnh Ngọc Điệp.
Đã
có lời khuyên của thi sĩ Gérard de Nerval : Hãy gieo
cánh hồng / Trên bước thời gian hoặc một câu thơ của
nữ sĩ Natalie Cliford Barney : Trái tim
không bao giờ trống rổng / Bóng hình nọ tắt
đi / Sẽ thay vào một hình bóng khác. Nhưng nhà thơ Mạc Phương Đình của chúng ta vẫn buồn khổ dài lâu.
Xin cùng đọc bài Thì thầm :
<!>
Xin cùng đọc bài Thì thầm :
<!>
em đi
con bướm buồn ngơ ngác
dáng
đứng sầu xưa nhánh liễu gầy
xa
dáng mầu trời đang ngã xuống
cỏ
non mềm mại khép đôi tay
ngõ
thơ từng nhánh trôi thành lệ
còn
chút niềm riêng cay mắt cay
dõi
bóng thời gian chìm lặng lẽ
dấu
xưa người khép tự phương này.
(trang 45)
Bài
thơ nào có những câu rõ nghĩa quá thì khó làm cho chúng ta không còn thú vị gì
nữa. Cách đây một phần ba thế kỷ Xuân Diệu đã làm những câu Lá hồng rơi lặng ngõ thuông,
Sương trinh rơi kính từ nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của bông hường
Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.
Nhà thơ luôn luôn phải tìm cho thơ một
vài chỗ ẩn núp để người đọc tưởng tượng thêm một thế giới kỳ thú riêng, Thơ
mà chữ nghĩa rõ ràng bộc tuệch tức là chữ
đâu nghĩa đó chỉ tổ làm cụt hứng khách sành điệu. Thơ của Mạc Phương Đình làm
bút giả HTA cảm nhận cái thú vị cái chữ nghĩa bóng bẩy và tình ý mờ mờ ảo ảo.
Nhờ vậy cái tưởng tượng của bút giả thêm phong phú và tràn ngập những màu sắc lộng
lẫy.
Chúng ta thử đọc thêm bài thơ Dấu tường vi để gặp đường lối sáng tác độc
đáo của Mạc tiên sinh :
hạ hồng còn đậu trên cây
nghe như thu đã heo may về nhiều
gói từng nỗi nhớ buồn thiu
tưởng còn in lại dáng kiều ngõ xưa
ngẩn ngơ lá cũng sang mùa
theo tường vi phía bên chùa nở hoa
em từ mất dấu thu qua
để vành trăng khuyết trong ta vỡ rồi
chuông thu rụng tiếng bồi hồi
đêm tường vi cũng rã rời bay theo.
(trang 202)
Những
nhạc sĩ như Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Văn Đông, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Trịnh
Công Sơn đều đặt lời cho nhạc phẩm của họ mờ mờ tỏ tỏ rất đẹp, rất thơ. Ai có
thể ngờ Trúc Phương sáng tác nhạc phổ thông cho dân chúng tầng lớp bình dân mà
đặt lời rất kiêu sa có khi thấm nhuần những sinh quan rất trí thức. Tôi lấy làm
lạ các nhà thơ hải ngoại rất nhiều nhưng lời thơ đẹp không có mấy ai. Đọc thơ của
Mạc Phương Đình tôi mới gặp một nhà thơ đáng lý phải đăng trên những tạp san
văn chương nổi tiếng như Văn Nghệ, Hợp Lưu, Văn, Làng Văn, Thế Kỷ 21 mới xứng đáng.
Nào, chúng ta làm cuộc viếng thăm trong
thế giới Ru người ru đời để tìm nguồn sáng tạo của Mạc Phương Đình qua bài Gõ cửa :
heo hút dấu trên
vuông trời chữ nghĩa
ta
tìm em, mưa biển vắng xa xăm
đêm
thức ngủ giật mình như bóng vía
lời gọi
em khan cổ một vầng trăng
chút
hoài nghi có vùi trong gió tuyết
em xa
xôi còn giữ chút hương nồng
sao vội
rớt những dòng thơ ly biệt
cho nỗi
buồn trải xuống cõi mênh mông
(trang 2000)
Và
đây là bài Lời dặn dò :
thôi
nhé đừng buồn trăng đã rụng
sương
mưa phủ kín lối em về
còn
đâu hoa tím vây đường nhỏ
một
thoáng bàn tay bỗng tái tê
thôi
nhé đừng buồn chim đã bay
cuối
trời đông lạnh chút heo may
dửng
dưng mưa nắng ngoài hiên lạ
còn nợ
ngày xưa một nét mày
(trang 148)
Cái độc đáo trong thơ Lời dặn dò của
Mạc Phương Đình là những câu tầm thường nhưng khi chui vào thơ vẫn là câu rất
thơ. Chúng được tác giả sấp xếp cách nào để tình ý đan vào nhau rạng ngời óc
sáng tạo. Miền Trung của đất nước chúng ta, từ Quảng Trị trở vào, sau năm
1955 có
rất nhiều nhà thơ nổi tiếng như Tường Linh, Hà Nguyên Thạch, Thành Tôn. Luân
Hoán, Hoàng Lộc Võ Chân Cửu ... Ra hải
ngoại lại có Mạc Phương Đình gốc người Quảng Nam. Nhưng trong thi tập Ru người ru đời, tác giả đôi khi nhắc tới thành phố
ấy. Riêng bút giả HTA nói tới Quảng Nam là nghĩ tới siông Thu Bồn nước trong vắt,
những vườn mít chín, món mì Quảng. Hình ảnh cố hương không được bao nhiêu. Anh
có nhiều điều phiền muộn, nhiều ưu tư, nhiều nhớ nhung luyến tiếc trong cuộc sống tha hương.
Nói chung đa số thi nhân đều làm thơ buồn.
Bài thơ Về ngắm lại quê xưa có thể chuyên chở niềm bâng khuâng luyến tiếc
khi nhà thơ thăm lại những địa danh trong vùng châu thổ tỉnh Quảng Nam :
ta về ngắm lại dòng sông cũ
ơi đất Tam Kỳ yêu dấu ơi
còn đó bên sông cây liễu gảy
người xưa đâu nhỉ ? vắng lâu rồi
Kỳ
Hưng tháp đỏ phai màu gạch
Cầu sắt
nghiêng soi bóng nước trôi
Phường
Một rực vàng màu hoa cải
nhà
Thờ lặng lẽ đứng mồ côi
đâu
trường Nguyễn Dục thời xa vắng
mất dấu
như em, bốn hướng đời
Lợi
Ký đẩy Thuyền qua bến lạ
Cơm
gà còn nhớ khách ngược xuôi
chân
qua Tịnh độ nhìn hoa sứ
vọng
tiếng chuông khua bước rã rời
Nam
Ngải ngày nào trang sách mở
cúi
nhìn Cầu Cống sầu khôn nguôi
cọc
đèn xanh đỏ như trơ trẻn
ngắm
dãy xe thồ đứng xả hơi
tất bật
chợ đùn quang gánh nhỏ
người
qua không nhận dấu chân người
ngả
lên Tiên Phước nghe mùa gió
gửi
chút hương nồng mẹt cá tươi
Chợ Mới
trôi về cùng quá khứ
bâng
khâng như kẻ bước qua thời
rêu
phong Khổng Miếu hàng cây rũ
ga vắng
chiều xa mây vẫn trôi
(các trang 76,77)
Thuở trước tôi đọc tình yêu
quê mến đất trong thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà qua thi tập Lúa sạ miền Nam. Nhưng thơ của ông rõ nghĩa, ý tình bộc lộ quá nhiều
nên làm cho tôi thiếu suy tư, thiếu tưởng tượng. Nhưng những câu thơ trong bài Về ngắm lại quê xưa ý tình kín đáo, tâm
tình không quá lõa lồ. Thơ như thế nầy
làm cho mỗi độc giả xây đấp một thế giới tưởng tượng riêng, dù những thế giới của
mỗi khác nhau, nhưng chúng có một tình cảm chung : tâm sự người bỏ quê bồi hồi gợi
lại những kỷ niệm xa xưa trên từng địa danh trong vùng đất quê hương.
Chúng ta đã từng cảm kích tâm
tình tha hương của nhà thơ Alphonse de Lamartine (1790 1869) qua bài Milly, la terre natale (Milly,
mảnh đất quê hương). Bài thơ
nầy vẫn là bài tuyệt vời, tâm tình cổi mở thiết tha. Nhưng nó xa cách với nhà thơ chúng ta hơn ba thế kỷ rồi.
Có thể chúng ta vẫn làm những bài nhớ đất mến quê, nhưng phải bằng ngôn từ
khác, kín đáo hơn, gợi công phu sáng tạo hơn. Điều ấy Mạc Phương Đình đã nắm bắt được, và đã áp dụng trọn vẹn trong thơ của anh.
Chúng ta là kẻ đến sau, một mặt phải tô điểm công phu của tiền nhân, nhưng
chúng ta đâu thể dừng chân nơi đó. Chúng ta phải ngóng về phía trước, sáng tạo
mới hơn. Giữ cái cũ tức là bị chôn vào những lớp mới, càng lúc càng thụt lùi.
Tinh thần sáng tạo càng lúc càng mai một đi.
Niềm nhớ quê nhà được thể
hiện qua bài Hẹn về thăm. Ở đây tác
giả không ghi từng địa danh nơi cố quán. Anh hẹn về thăm suốt bốn mùa. Đề tài
trong thơ anh giản dị. Nhưng chúng ta cũng thừa biết chọn đề tài không quan trọng
bằng diễn tả đề tài. Đề tài nhớ quê đâu có sâu xa gì cho cam. Vậy mà Mạc Phương
Đình biến niềm rung cảm đặc thù của anh qua những câu thơ chân thành, qua những
chất liệu khơi ngọn trào lòng cho những ai có cùng tâm sự với anh. Xin cùng đọc
bài Hẹn về thăm :
những
sáng mùa Xuân hoa nở rộ
đàn
chim nào hót ở bên hè
tung
tăng áo mới về thăm Ngoại
nhà cổ
hai gian, cây phủ che
mùa Hạ
hương sen lan ngào ngạt
trưa
nồng vườn rộn tiếng ve ve
sân
Thu vàng rực màu hoa cúc
tháng
tám đèn trăng sáng bốn bề
lớp học
thơm từng trang sách mới
chưa
Đông mưa gió đã lê thê
thôn
nghèo lo bão về đâu đó
cây cỏ
buồn hiu cảnh não nề…
nhớ đủ
bốn mùa, bao kỷ niệm
bâng
khuâng hẹn mãi vẫn chưa về.
(trang 55)
Và
đây là bài Một lần trở lại. Ngôn ngữ
thơ được lột xác trở nên quyến rũ bội phần. Thi sĩ họ Mạc đâu cần đưa thơ vào
âm điệu du dương để làm phù thủy âm thanh hay làm nhà ảo thuật của tiết điệu.
Thơ vẫn phì nhiêu cảm xúc thân thương cho độc giả yêu thơ.
rồi một
ngày âm thầm ta trở lại
nhìn
qua sông cây lá vẫn còn xanh
dòng
nước cạn bầy cá ròng bơi lội
nghe
rong rêu sương gió chợt vô tình
trên
bến cũ trăng nghiêng vàng mệt mỏi
thuyền
ai qua chở gió một khoang đầy
con
sông nhỏ chừng long lanh giọt lệ
của một
thời đau đớn những chia tay
xin đừng
hiểu cho lần ta trở lại
tìm
riêng tư yêu dấu bóng trời quê
ngày
tháng vẫn trôi qua vòng nhật nguyệt
bao tang
thươngcho mượn lối đi về
lời cầu
nguyện xin chia cùng cố xứ
điệu
ru em xao xuyến những ân tình
câu
ân ái trên môi cha mắt mẹ
là cội
nguồn dòng sử Việt ngàn năm
cho một
lần cùng nhau ta trở lại
ấm
tình sâu nghĩa nặng với quê hương
trong
ánh mắt ngọt ngào đêm hội ngộ
bàn
chân xưa tìm được dấu thiên đường.
(các trang 122, 123)
Theo thiển ý của bút giả khi tình yêu
chui vào bài văn và hay câu thơ bằng
ngôn từ diễm lệ, bằng ý tưởng bao la
hoành tráng thì độc giả cảm thấy tâm tình của mình chưa được vỗ về. Thơ phải
chân thành. Nhưng thơ văn rõ ràng quá,
quen thuộc quá thì làm cho tinh thần sáng tạo của chúng ta bị thui chột đi. Nhà
thơ Mạc Phương Đình của chúng ta ở bài Hẹn
về thăm dùng ngôn từ đơn giản phản ảnh tâm tình rất trung thật. Nhưng ở bài
Mùa đông xa anh dùng lời bóng bẩy
nhưng đâu kém chân thành. Đây này :
hãy thức dậy, mang mùa đông xuống phố
chia cho người bớt chút lạnh đi em
sầu viễn xứ như từng bông tuyết trắng
nhuộm tóc nhau trong lặng lẽ im lìm
gió phương bắc từng cơn tê nỗi nhớ
đèn quê xưa hiu quạnh rọi qua tim
dòng nước mắt như hòa trong máu thịt
dấu thương đau trăn trở buốt từng đêm
nắng trốn biệt ngàn ngày không trở lại
chân trời xa một màu xám êm đềm
sợi tóc bạc muộn phiền trên gối nhỏ
bàn chân đau hạt cát chẳng thân quen
mấy chiếc lá vàng nghiêng bên cửa sổ
màu phố xưa sầu rụng chuỗi hoa đèn
đêm mộng mị chập chùng câu hẹn cũ
kẻ đi về lối xóm nhắc cùng tên
còng lưng gánh mùa đông chôn kỷ niệm
nhưng quê hương xa lắc dễ gì quên.
(các trang
52, 53)
Những bài nhớ thương bà mẹ vẫn là thơ với
chủ đề quen thuộc, nhưng thi sĩ Mạc Phương Đình áp dụng ngôn ngữ canh tân mới
làm tăng thêm nguồn cảm xúc cho người đọc. Trước đây, anh viết nhều bài thơ tặng
mẹ trong thi tập đầu tay Lời ru của mẹ thật,
lời thơ dồi dào xúc động. Trong Ru người ru đời chỉ có đâu đó một vài bài gửi về mẹ, ý thơ đâu kém phần
tha thiết. Xin xem bài Vô tư không chỉ
nói về từ mẫu mà còn trải ý tình lên
nghiêm phụ của tác giả. Xin cùng đọc :
đêm sóng sánh rớt buồn câu lục bát
từng nỗi sầu đóng mở khúc ca dao
lời ru mẹ còn ấm lòng thơm ngát
gội yêu thương qua giai điệu ngọt ngào
như bắt gặp trong hồi môn của mẹ
bóng roi mây một thưở của lời cha
dấu đạo đức còn hằn in tuổi trẻ
hướng đời lên cho suốt chặng đường xa
(trang 161)
Mạc Phương Đình không bao
giờ chọn những đề tài hiểm hóc. Anh chọn những đề tài đơn giản và gần gũi và thân thương cho
chúng ta. Nhưng câu thơ của anh rất đẹp, rất ngời sáng tinh thần sáng tạo. Đề
tài về cha mẹ của anh không đòi hỏi một công phu về chữ nghĩa (tức là chữ nghĩa diêm dúa kiêu sa). Ngôn từ
trong thơ anh chải chuốt rất tự nhiên. Chẳng hạn như
bài Bụi thời gian :
câu ca dao từ ngày xưa mẹ hát
dấu bờ tre con bìm bịp kêu chiều
lạch nước chảy qua mấy bờ ruộng cạn
như mùa hè trông nồm thổi thổi hiu hiu
cay con mắt giấc trưa nồng chưa đã
chú dế mèn ngơ ngác giọng buồn thiu
có một sớm bên kia sông bỏ chợ
súng đạn về theo nước mắt khăn tang
câu hát mẹ cũng đầm đìa cổ tích
căn nhà quen trùm lên dấu điêu tàn
mảnh áo rách gói khoai chà lưu lạc
con đò già cũng mất lối sang ngang
cha gánh gạo rừng đêm nghe muỗi hát
lời ru xưa đau tuổi đá trên ngàn
bên bếp lửa còn nồi rau bát cháo
nỗi quê hương cay đắng lật từng trang
(các trang
164, 165)
Có độc giả lại nghĩ khác : Ngôn từ trong thơ được chăm sóc nên rất dồi dào thẩm mỹ,
rất điễm trang hoa lệ. Nhưng tác giả chỉ nói về đạo đức của gia đinh, anh không
đào sâu tình phụ tử lẫn tình mẫu tử. Nhưng qua bài Cúng mẹ, ngôn từ đơn giản
hơn. Tình mẫu tử nhờ đó mà gây xúc động cho độc giả. Tình con đối với mẹ rất thiêng liêng, chữ
nghĩa trong thơ phải chân thành đơn giản để tránh rổng sáo, để tránh chữ tuy
nhiều nhưng nghĩa rất ít, hoặc chữ kêu lảnh lót mà nghĩa lại im câm. Xin cùng
thưởng thức :
ngày mẹ mất, vẫn còn trong túi áo
mấy chục đồng con cho mẹ hôm xưa
món tiền nhỏ, từ công con làm chổi
hết cau trầu mà mẹ chẳng kịp mua
con biết mẹ phải nhịn trầu mấy bữa
sau khi ăn, nghe tiếng mẹ thở dài
chiếc ống ngoáy nằm trên bàn lặng lẽ
mẹ không tiền mà chẳng dám hỏi ai
đi tù về, gia đình càng khó nhọc
con xin làm chổi đót sống qua ngày
hàng đã nộp mà tiền công chưa nhận
gạo sẵn nhờ hàng xóm giúp cho vay
lát sắn sượng cõng hạt cơm nhẹ quá
không còn răng đành mấy hạt cơm thôi
bụng mẹ đói nhưng cau trầu ấm miệng
bảy mươi năm đậm nhạt cũng quen rồi
nơi quê người mỗi lần con cúng mẹ
trên mâm cơm luôn có đĩa cau trầu
nhìn vôi trắng con nhớ vầng tóc bạc
mất mẹ hiền đời dồn dập thương đau.
( các trang 13O,
131)
Bây giờ xin nói về nhân
sinh quan trong thi tập Ru người ru đời. Nhân sinh quan chỉ nhắm vào ý tưởng của con
người. Còn tư tưởng thì nhắm vào cái sâu xa của triết học và tôn giáo. Văn
chương tư tưởng trong số nhà văn ở quốc nội và ở hải ngoại của chúng ta quá ít
oi. Xin kể : Vũ Khắc Khoan
trong cuốn tập truyệnThần tháp rùa và
vở kịch Thành-cát-tư-hản, Nghiêm Xuân
Hồng trong Trang tôn kinh huyền hoặc, Thân
Thị Ngọc Quế trong thi tập Đường lên đỉnh
biếc, Giọt nước cành sen, Như Chi trong thi tập Thơ Hiền (tên
cô là Lê Thị Hiền). Trong hai tác
phẩm tập truyện và vở kịch, Vũ Khắc Khoan nói về lẽ sống chết, về tham vọng của
con người có quyền lực qua những suy niệm bi quan yếm thế. Qua Trang
tôn kinh huyền hoặc, Nghiêm Xuân Hồng sự thành lập cõi tam thiên đại thiên
quốc độ. Còn Thân thị Ngọc Quế và Như Chi đem Phật pháp vào thi ca.
Còn thi tập Ru người ru đời với
những bài có nhiều bài hiển lộ những nhân sinh quan gồm có bài Trăn trở :
tóc nhuộm trắng nhưng hồn còn xanh ngát
tuổi xuân ơi ngày tháng trốn về đâu
nghĩa sông núi gởi bên trời lưu lạc
ai mơ chi khanh tướng với công hầu
vàng đôi mắt đợi chốn tình mòn mỏi
nhìn én về đan dệt những mùa xuân
như dòng chảy ập xuống đầy dấu hỏi
tưởng bọt bèo không đắm nổi gian truân
trên bước lỡ nửa đời cùng gió bão.
người về đâu quay quắt lối hẹn hò
con sóng lớn nhấn chìm bao mộng ảo
gót khua buồn qua những nẻo quanh co
như con sáo biếng lười không tiếng hót
mộng nghìn đêm trả hết
thuở xuân thì
người có phải là muôn lời mật ngọt
dành riêng mình một ngõ dấu chân đi
vẫn còn đó những mắt chờ vô vọng-
nắng và mưa mang nặng dấu luân hồi
ngày đã lụn che khung trời lạnh cóng
chút hương nào đậm nhạt chốn xa xôi.
(các trang 34, 35)
Bài thơ nầy có ngôn ngữ úp mở… rất thơ, rất giàu sang ý tình. Chúng ta
dù không hiểu thấu các điều tác giả nói. Nhưng chúng ta biết bài thơ đến mọi lớp
người bằng một thế giới riêng, một tình cảm riêng để tuôn tràn cảm xúc. Chúng ta đều biết tác giả không hạnh phúc .
Cuộc đời của anh không đáp ứng với nguyện
vọng của anh. Mộng lớn mộng nhỏ của anh bị thực tế phũ phàng vùi lấp. Đây là một
bài bi ca (poème saturnien) Trớ trêu thay khi mình không đối diện với chính
mình để mình rõ con đường nào mình phải đi, để thấy viễn ảnh và tương lai mình ra sao, để mình tìm chút hy vọng. Mình
thấy cô đơn lạc lỏng. Bài thơ Giấu niềm
riêng có những đoạn cho chúng ta thấy nỗi niềm bi quan của thi sĩ :
trên sóng đời đôi tay chèo mỏi mệt
ta phù du theo tiếng gọi đăng trình
mỗi chặng đường ngỡ ngàng khi ngó lại
vết chân buồn rơi rụng kiếp nhân sinh
cùng bằng hữu một tấm lòng rực rỡ
đâu tiếc chi giọt máu ngọt phù sa
mơ tuổi trẻ cùng phơi lòng trinh bạch
vì non sông ru niệm khúc quê nhà.
(trang 158)
Tôi mang máng nhớ thi sĩ Khalil Gibran có khuyên các nhà thơ : Hãy dùng cây bút ánh sáng / dùng tấm
lòng ánh sáng/ để viết bày thơ ánh sáng. Nhưng phần
đông chúng ta thường nghĩ rằng các nhà thơ của chúng ta đều làm thơ buồn, thơ
không buồn thì người sáng tác chưa phải là thi sĩ. Có phải đương sự quá vội
vàng suy tư như thế chăng. Thi tập Ru người
ru đời hầu như không có bài vui nào.
Xin cùng đọc bài
thơ Ta và sóng:
ngày
tĩnh lặng bóng thời gian rụng xuống
người
bỏ đi mây nước cũng vô tâm
nào
khắc khoải lạnh lùng dẫu muộn
có
còn chăng mùi hương cũ âm thầm
buông
nỗi nhớ lạc loài trong gió
để bềnh
bồng mất dấu lối mòn xưa
chút
hương cũ dành cho người ở đó
kẻ
bên trời hiu hắt ánh trăng thưa
vẫn
tiếng gọi vọng về từ biển
sóng
biển mênh mông con sóng về đâu
vẫn
tiếng gọi rơi chìm vô vọng
biển
cùng ta thinh lặng cúi đầu.
.
. .
Sau hết, những bài thơ tình trong thi tập
Ru người ru đời. Chưa chắc người yêu của thi sĩ là giai nhân tố nữ hay
là kiều nga mỹ nhân. Chúng ta chỉ biết cô ta đã nhóm trong tim thi sĩ ngọn lửa
tình sáng rực. Nhưng cô ta vì cớ nầy hay
cớ khác chia biệt cùng chàng để chàng nhỏ lệ trong thơ. Xin cùng đọc bài thơ Mộng ảo :
chim vỗ cánh mang đầy bao nỗi nhớ
bóng mây xa theo gió gọi mây ngàn
em ở đó sao chừng xa vời vợi
những dòng thơ lay lắt bóng trăng tan
thuyền đợi sóng vỗ về âm điệu cũ
dấu chân xưa in lối ngõ hoa vàng
đêm trăn trở ru từng cơn mộng ảo
chút lạnh nào se sắt gió trường giang
tìm đáy cốc nỗi buồn tan giọt rượu
hồn bỗng trôi theo bóng nguyệt mơ màng.
Mùa
có xuân, hạ, thu, đông. Nhưng mùa thu trong văn chương miền Bắc có nước trong trăng
sáng, có hoa cúc thịnh phóng trong tiết giao mùa. Nhưng mùa thu bên Trung Hoa
thuở xa xưa là mùa hành quyết các tột nhân. Và mùa thu gợi cho Mạc thi nhân một
mối sầu chia biệt. Xin cùng đọc Lại chờ thu :
ta đứng
giữa mù thu chờ đợi
nắng
trên cao lấp lánh theo dòng
gió
reo trên lá nghe vời vợi
những
khúc tình xưa rót thật trong
thu
đi năm ngoái vàng hoa cúc
nửa gối
sầu lên đưa tiển nhau
em
khóc cho hồn ta gổ mục
còn
chi trao gửi đến em đâu.
ta
nhìn ly rượu hồn thêm đắng
không
uống mà say với ngẩn ngơ
em bước
trong hồn ta chết lặng
đường
xa trước mặt, nổi ơ thờ
thu
đi năm ngoái dường xa lắc
ta đếm
từng trăng chút võ vàng
trăng
cũng bập bềnh soi vằng vặc
để ngờ
chưa khuyết bóng thu sang
ta đứng
chờ thu hay đợi em
ngày
qua bỏ lại chút âm thầm
thu
chưa vàng lá sầu như rụng
không
gió may về vẫn lạnh căm.
(các trang 116, 117)
Các bạn độc giả đứng tuổi
thích gợi lại mối tình sinh viên hay mối tình học sinh trong bài thơ, trong ca
khúc, Mạc Phương Đình đâu có quên thời thơ mộng của các bạn đâu. Đây nầy bài
thơ Hình bóng xưa với các trang 118,
119.
em bước
nhỏ ngọt ngào trăng mười sáu
dấu
xuân xanh trong nhịp gót sen hồng
nơi bờ
giậu, hoa cuối mùa nghiêng xuống
con
sáo ngừng giọng hót ở bên sông
gió
âu yếm dịu vờn trên mái tóc
rung
làn mây óng ả tuổi nhung tơ
đôi mắt
biếc mềm như hơi thở nhẹ
và
bâng khâng như một nỗi mong chờ
ôm
chiếc cặp, tương lai em dấu kín
ngẩng
trông lên hoa phượng nở trên đầu
nắng
mùa hè xoa chút hồng đôi má
khoé
môi chờ dịu ngọt với ngàn câu
ta bắt
gặp ngày xưa qua vóc dáng
em
thơ ngây nhịp guốc trước sân trường
bao kỷ
niệm của một thời áo trắng
vẫn đậm
đà bao nỗi nhớ, niềm thương
xin
được giữ chút hồn nhiên thơ dại
để
mang theo trên những nẽo đường đời
hoa vẫn
nở dẫu tháng ngày khó nhọc
lòng
vẫn vui cùng sương gió em ơi.
(các trang 118 , 119)
Thi tập Ru người ru đời của Mạc
Phương Đình với đề tài gần gũi với bạn đọc. Chúng ta gặp những đoạn đời gian truân khổ ải của tác
giả như : lòng yêu kính mẹ hiền, xa quê hương, lưu lạc
xứ người, tình yêu lứa đôi tha thiết
nhưng không hạnh phúc về sau.
Ý thơ của anh bình thường nhưng không tầm
thường. Đó là sự tha thiết chân thành, không ngụy trang tâm trạng cầu kỳ bằng những
hoa hòe hoa sói. Điều đáng nói là anh tìm một ngôn ngữ rất
thơ. Đa số nhà thơ làm những bài thơ với
tình ý trống trải ; chữ nghĩa cũ mèm, thiếu sự canh tân, thiếu sự sáng tạo. Hồi
tiền chiến Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu và Huy Cận đã tìm ngôn ngữ thơ riêng biệt
cho mình. Ngôn ngữ đó không quá hũ nút như thơ của nhóm Xuân Thu Nhã Tập, như
thơ của Bùi Giáng, như thơ của Phạm Công Thiện. Thơ của Mạc Phương Đình gồm những
ngôn từ huê dạng, tuy có kiến trúc hơi lạ, nhưng vẫn cho độc giả hiểu thấu để
cho tâm tình giữa anh và độc giả cảm thông nhau, để cho đôi bên được thăng hoa
vào một tình ý đậm đà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét