Lòng Mẹ

Trước cửa Nhà Tôi

22.11.18

Mạc Phương Đình : Thi Tập Ru Người Ru Đời - HỒ TRƯỜNG AN



      Đây là tập thơ thứ ba của nhà thơ Mạc Phương Đình sau hai tập thơ  Lời ru của mẹ, Những dòng kỷ niệm. Ba thi tâp đều do Yêu Thương xuất bản.  Cách trình bày bìa sách và ruột sách thật đẹp. Bìa màu lục nõn, hình màu hoa dã tưởng (không biết là hoa gì) màu cam lan ra chót đuôi màu hoàng cúc trên nền lục đậm lan vào trong màu tím tươi và màu mạ non. Chữ ru người màu trắng, chữ ru đời  màu hoàng yến.  Những trang trong của thi tập  màu khói lam chập chờn dáng khói hình sương màu bạch phấn. Đó là công trình của họa sĩ Huỳnh Ngọc Điệp.

      Đã có lời khuyên của thi sĩ Gérard de Nerval :  Hãy gieo cánh hồng / Trên bước thời gian hoặc một câu thơ của nữ sĩ Natalie Cliford Barney :  Trái tim không bao giờ trống rổng /  Bóng hình n tắt đi / Sẽ thay vào một hình bóng khác. Nhưng nhà thơ Mạc Phương Đình của chúng ta vẫn buồn khổ dài lâu. 

Xin cùng đọc bài  Thì thầm :
<!>



em đi con bướm buồn ngơ ngác

dáng đứng sầu xưa nhánh liễu gầy

xa dáng mầu trời đang ngã xuống

cỏ non mềm mại khép đôi tay

ngõ thơ từng nhánh trôi thành lệ

còn chút niềm riêng cay mắt cay

dõi bóng thời gian chìm lặng lẽ

dấu xưa người khép tự phương này.

(trang 45)

     

      Bài thơ nào có những câu rõ nghĩa quá thì khó làm cho chúng ta không còn thú vị gì nữa.  Cách đây một phần ba thế kỷ Xuân Diệu đã làm những câu Lá hồng rơi lặng ngõ thuông,



Sương trinh rơi kính từ nguồn yêu thương

Phất phơ hồn của bông hường

Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.



      Nhà thơ luôn luôn phải tìm cho thơ một vài chỗ ẩn núp để người đọc tưởng tượng thêm một thế giới kỳ thú riêng, Thơ mà  chữ nghĩa rõ ràng bộc tuệch tức là chữ đâu nghĩa đó chỉ tổ làm cụt hứng khách sành điệu. Thơ của Mạc Phương Đình làm bút giả HTA cảm nhận cái thú vị cái chữ nghĩa bóng bẩy và tình ý mờ mờ ảo ảo. Nhờ vậy cái tưởng tượng của bút giả thêm phong phú và tràn ngập những màu sắc lộng lẫy.

      Chúng ta thử đọc thêm bài thơ Dấu tường vi để gặp đường lối sáng tác độc đáo của Mạc tiên sinh :



hạ hồng còn đậu trên cây

nghe như thu đã heo may về nhiều

gói từng nỗi nhớ buồn thiu

tưởng còn in lại dáng kiều ngõ xưa

ngẩn ngơ lá cũng sang mùa

theo tường vi phía bên chùa nở hoa

em từ mất dấu thu qua

để vành trăng khuyết trong ta vỡ rồi

chuông thu rụng tiếng bồi hồi

đêm tường vi cũng rã rời bay theo.

(trang 202)



      Những nhạc sĩ như Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Văn Đông, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Trịnh Công Sơn đều đặt lời cho nhạc phẩm của họ mờ mờ tỏ tỏ rất đẹp, rất thơ. Ai có thể ngờ Trúc Phương sáng tác nhạc phổ thông cho dân chúng tầng lớp bình dân mà đặt lời rất kiêu sa có khi thấm nhuần những sinh quan rất trí thức. Tôi lấy làm lạ các nhà thơ hải ngoại rất nhiều nhưng lời thơ đẹp không có mấy ai. Đọc thơ của Mạc Phương Đình tôi mới gặp một nhà thơ đáng lý phải đăng trên những tạp san văn chương nổi tiếng như Văn Nghệ, Hợp Lưu, Văn, Làng Văn, Thế Kỷ  21 mới  xứng đáng.

      Nào, chúng ta làm cuộc viếng thăm trong thế giới  Ru người ru đời để tìm nguồn sáng tạo của Mạc Phương Đình qua bài Gõ cửa :



 heo hút dấu trên vuông trời chữ nghĩa

ta tìm em, mưa biển vắng xa xăm

đêm thức ngủ giật mình như bóng vía

lời gọi em khan cổ một vầng trăng



chút hoài nghi có vùi trong gió tuyết

em xa xôi còn giữ chút hương nồng

sao vội rớt những dòng thơ ly biệt

cho nỗi buồn trải xuống cõi mênh mông

(trang 2000)



      Và đây là bài Lời dặn dò :



thôi nhé đừng buồn trăng đã rụng

sương mưa phủ kín lối em về

còn đâu hoa tím vây đường nhỏ

một thoáng bàn tay bỗng tái tê



thôi nhé đừng buồn chim đã bay

cuối trời đông lạnh chút heo may

dửng dưng mưa nắng ngoài hiên lạ

còn nợ ngày xưa một nét mày

 (trang 148)



      Cái độc đáo trong thơ Lời dặn dò của Mạc Phương Đình là những câu tầm thường nhưng khi chui vào thơ vẫn là câu rất thơ. Chúng được tác giả sấp xếp cách nào để tình ý đan vào nhau rạng ngời óc sáng tạo. Miền Trung của đất nước chúng ta, từ Quảng Trị trở vào, sau năm 1955 có rất nhiều nhà thơ nổi tiếng như Tường Linh, Hà Nguyên Thạch, Thành Tôn. Luân Hoán, Hoàng Lộc  Võ Chân Cửu ... Ra hải ngoại lại có Mạc Phương Đình gốc người Quảng Nam. Nhưng trong thi tập Ru người ru đời, tác giả đôi khi nhắc tới thành phố ấy. Riêng bút giả HTA nói tới Quảng Nam là nghĩ tới siông Thu Bồn nước trong vắt, những vườn mít chín, món mì Quảng. Hình ảnh cố hương không được bao nhiêu. Anh có nhiều điều phiền muộn, nhiều ưu tư, nhiều nhớ nhung luyến tiếc  trong cuộc sống tha hương.

      Nói chung đa số thi nhân đều làm thơ buồn. Bài thơ  Về ngắm lại quê xưa có thể chuyên chở niềm bâng khuâng luyến tiếc khi nhà thơ thăm lại những địa danh trong vùng châu thổ tỉnh Quảng Nam :



ta về ngắm lại dòng sông cũ

ơi đất Tam Kỳ yêu dấu ơi

còn đó bên sông cây liễu gảy

 người xưa đâu nhỉ ? vắng lâu rồi

Kỳ Hưng  tháp đỏ phai màu gạch

Cầu sắt nghiêng soi bóng nước trôi

Phường Một rực vàng màu hoa cải

nhà Thờ lặng lẽ đứng mồ côi

đâu trường Nguyễn Dục thời xa vắng

mất dấu như em, bốn hướng đời

Lợi Ký đẩy Thuyền qua bến lạ

Cơm gà còn nhớ khách ngược xuôi

chân qua Tịnh độ nhìn hoa sứ

vọng tiếng chuông khua bước rã rời

Nam Ngải ngày nào trang sách mở

cúi nhìn Cầu Cống sầu khôn nguôi

cọc đèn xanh đỏ như trơ trẻn

ngắm dãy xe thồ đứng xả hơi

tất bật chợ đùn quang gánh nhỏ

người qua không nhận dấu chân người

ngả lên Tiên Phước nghe mùa gió

gửi chút hương nồng mẹt cá tươi

Chợ Mới trôi về cùng quá khứ

bâng khâng như kẻ bước qua thời

rêu phong Khổng Miếu hàng cây rũ

ga vắng chiều xa mây vẫn trôi


(các trang 76,77)



       Thuở trước tôi đọc tình yêu quê mến đất trong thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà qua thi tập Lúa sạ miền Nam. Nhưng thơ của ông rõ nghĩa, ý tình bộc lộ quá nhiều nên làm cho tôi thiếu suy tư, thiếu tưởng tượng. Nhưng những câu thơ trong bài Về ngắm lại quê xưa ý tình kín đáo, tâm tình không quá lõa lồ. Thơ như thế nầy làm cho mỗi độc giả xây đấp một thế giới tưởng tượng riêng, dù những thế giới của mỗi khác nhau, nhưng chúng có một tình cảm chung : tâm sự người bỏ quê bồi hồi gợi lại những kỷ niệm xa xưa trên từng địa danh trong vùng đất quê hương.

      Chúng ta đã từng cảm kích tâm tình tha hương của nhà thơ Alphonse de Lamartine (1790 1869)  qua bài Milly, la terre natale (Milly, mảnh đất quê hương). Bài thơ nầy vẫn là bài tuyệt vời, tâm tình cổi mở thiết tha. Nhưng nó  xa cách với nhà thơ chúng ta hơn ba thế kỷ rồi. Có thể chúng ta vẫn làm những bài nhớ đất mến quê, nhưng phải bằng ngôn từ khác, kín đáo hơn, gợi công phu sáng tạo hơn. Điều ấy Mạc Phương Đình  đã nắm bắt được,  và đã áp dụng trọn vẹn trong thơ của anh. Chúng ta là kẻ đến sau, một mặt phải tô điểm công phu của tiền nhân, nhưng chúng ta đâu thể dừng chân nơi đó. Chúng ta phải ngóng về phía trước, sáng tạo mới hơn. Giữ cái cũ tức là bị chôn vào những lớp mới, càng lúc càng thụt lùi. Tinh thần sáng tạo càng lúc càng mai một đi.

       Niềm nhớ quê nhà được thể hiện qua bài Hẹn về thăm. Ở đây tác giả không ghi từng địa danh nơi cố quán. Anh hẹn về thăm suốt bốn mùa. Đề tài trong thơ anh giản dị. Nhưng chúng ta cũng thừa biết chọn đề tài không quan trọng bằng diễn tả đề tài. Đề tài nhớ quê đâu có sâu xa gì cho cam. Vậy mà Mạc Phương Đình biến niềm rung cảm đặc thù của anh qua những câu thơ chân thành, qua những chất liệu khơi ngọn trào lòng cho những ai có cùng tâm sự với anh. Xin cùng đọc bài Hẹn về thăm :



những sáng mùa Xuân hoa nở rộ

đàn chim nào hót ở bên hè

tung tăng áo mới về thăm Ngoại

nhà cổ hai gian, cây phủ che

mùa Hạ hương sen lan ngào ngạt

trưa nồng vườn rộn tiếng ve ve

sân Thu vàng rực màu hoa cúc

tháng tám đèn trăng sáng bốn bề

lớp học thơm từng trang sách mới

chưa Đông mưa gió đã lê thê

thôn nghèo lo bão về đâu đó

cây cỏ buồn hiu cảnh não nề…



nhớ đủ bốn mùa, bao kỷ niệm

bâng khuâng hẹn mãi vẫn chưa về.

(trang 55)



      Và đây là bài Một lần trở lại. Ngôn ngữ thơ được lột xác trở nên quyến rũ bội phần. Thi sĩ họ Mạc đâu cần đưa thơ vào âm điệu du dương để làm phù thủy âm thanh hay làm nhà ảo thuật của tiết điệu. Thơ vẫn phì nhiêu cảm xúc thân thương cho độc giả yêu thơ.



rồi một ngày âm thầm ta trở lại

nhìn qua sông cây lá vẫn còn xanh

dòng nước cạn bầy cá ròng bơi lội

nghe rong rêu sương gió chợt vô tình



trên bến cũ trăng nghiêng vàng mệt mỏi

thuyền ai qua chở gió một khoang đầy

con sông nhỏ chừng long lanh giọt lệ

của một thời đau đớn những chia tay



xin đừng hiểu cho lần ta trở lại

tìm riêng tư yêu dấu bóng trời quê

ngày tháng vẫn trôi qua vòng nhật nguyệt

bao tang thươngcho mượn lối đi về



lời cầu nguyện xin chia cùng cố xứ

điệu ru em xao xuyến những ân tình

câu ân ái trên môi cha mắt mẹ

là cội nguồn dòng sử Việt ngàn năm



cho một lần cùng nhau ta trở lại

ấm tình sâu nghĩa nặng với quê hương

trong ánh mắt ngọt ngào đêm hội ngộ

bàn chân xưa tìm được dấu thiên đường.

(các trang 122, 123)       



      Theo thiển ý của bút giả khi tình yêu chui vào bài văn và hay câu thơ bằng ngôn từ diễm lệ, bằng ý tưởng  bao la hoành tráng thì độc giả cảm thấy tâm tình của mình chưa được vỗ về. Thơ phải chân thành. Nhưng thơ văn rõ  ràng quá, quen thuộc quá thì làm cho tinh thần sáng tạo của chúng ta bị thui chột đi. Nhà thơ Mạc Phương Đình của chúng ta ở bài Hẹn về thăm dùng ngôn từ đơn giản phản ảnh tâm tình rất trung thật. Nhưng ở bài Mùa đông xa anh dùng lời bóng bẩy nhưng đâu kém chân thành. Đây này :



hãy thức dậy, mang mùa đông xuống phố

chia cho người bớt chút lạnh đi em

sầu viễn xứ như từng bông tuyết trắng

nhuộm tóc nhau trong lặng lẽ im lìm

gió phương bắc từng cơn tê nỗi nhớ

đèn quê xưa hiu quạnh rọi qua tim

dòng nước mắt như hòa trong máu thịt

dấu thương đau trăn trở buốt từng đêm

nắng trốn biệt ngàn ngày không trở lại

chân trời xa một màu xám êm đềm

sợi tóc bạc muộn phiền trên gối nhỏ

bàn chân đau hạt cát chẳng thân quen

mấy chiếc lá vàng nghiêng bên cửa sổ

màu phố xưa sầu rụng chuỗi hoa đèn

đêm mộng mị chập chùng câu hẹn cũ

kẻ đi về lối xóm nhắc cùng tên

còng lưng gánh mùa đông chôn kỷ niệm

nhưng quê hương xa lắc dễ gì quên.

(các trang 52, 53)



      Những bài nhớ thương bà mẹ vẫn là thơ với chủ đề quen thuộc, nhưng thi sĩ Mạc Phương Đình áp dụng ngôn ngữ canh tân mới làm tăng thêm nguồn cảm xúc cho người đọc. Trước đây, anh viết nhều bài thơ tặng mẹ trong thi tập đầu tay Lời ru của mẹ thật, lời thơ dồi dào xúc động. Trong  Ru người ru đời  chỉ có đâu đó một vài bài gửi về mẹ, ý thơ đâu kém phần tha thiết. Xin xem bài Vô tư không chỉ nói về từ mẫu mà  còn trải ý tình lên nghiêm phụ của tác giả.  Xin cùng đọc  :



đêm sóng sánh rớt buồn câu lục bát

từng nỗi sầu đóng mở khúc ca dao

lời ru mẹ còn ấm lòng thơm ngát

gội yêu thương qua giai điệu ngọt ngào



như bắt gặp trong hồi môn của mẹ

bóng roi mây một thưở của lời cha

dấu đạo đức còn hằn in tuổi trẻ

hướng đời lên cho suốt chặng đường xa

(trang 161)



       Mạc Phương Đình không bao giờ chọn những đề tài hiểm hóc. Anh chọn những đề tài đơn giản và gần gũi và thân thương cho chúng ta. Nhưng câu thơ của anh rất đẹp, rất ngời sáng tinh thần sáng tạo. Đề tài về cha mẹ của anh không đòi hỏi một công phu về chữ nghĩa (tức là chữ nghĩa diêm dúa kiêu sa).  Ngôn từ trong thơ anh  chải chuốt rất tự nhiên. Chẳng hạn như bài Bụi thời gian :



câu ca dao từ ngày xưa mẹ hát

dấu bờ tre con bìm bịp kêu chiều

lạch nước chảy qua mấy bờ ruộng cạn

như mùa hè trông nồm thổi thổi hiu hiu

cay con mắt giấc trưa nồng chưa đã

chú dế mèn ngơ ngác giọng buồn thiu

có một sớm bên kia sông bỏ chợ

súng đạn về theo nước mắt khăn tang

câu hát mẹ cũng đầm đìa cổ tích

căn nhà quen trùm lên dấu điêu tàn

mảnh áo rách gói khoai chà lưu lạc

con đò già cũng mất lối sang ngang

cha gánh gạo rừng đêm nghe muỗi hát

lời ru xưa đau tuổi đá trên ngàn

bên bếp lửa còn nồi rau bát cháo

nỗi quê hương cay đắng lật từng trang

(các trang  164, 165)



      Có  độc giả lại nghĩ khác : Ngôn từ trong thơ được chăm sóc nên rất dồi dào thẩm mỹ, rất điễm trang hoa lệ. Nhưng tác giả chỉ nói về đạo đức của gia đinh, anh không đào sâu tình phụ tử lẫn tình mẫu tử. Nhưng qua bài  Cúng mẹ, ngôn từ đơn giản hơn. Tình mẫu tử nhờ đó mà gây xúc động cho độc giả.  Tình con đối với mẹ rất thiêng liêng, chữ nghĩa trong thơ phải chân thành đơn giản để tránh rổng sáo, để tránh chữ tuy nhiều nhưng nghĩa rất ít, hoặc chữ kêu lảnh lót mà nghĩa lại im câm. Xin cùng thưởng thức :



ngày mẹ mất, vẫn còn trong túi áo

mấy chục đồng con cho mẹ hôm xưa

món tiền nhỏ, từ công con làm chổi

hết cau trầu mà mẹ chẳng kịp mua



con biết mẹ phải nhịn trầu mấy bữa

sau khi ăn, nghe tiếng mẹ thở dài

chiếc ống ngoáy nằm trên bàn lặng lẽ

mẹ không tiền chẳng dám hỏi ai



đi tù về, gia đình càng khó nhọc

con xin làm chổi đót sống qua ngày

hàng đã nộp mà tiền công chưa nhận

gạo sẵn nhờ hàng xóm giúp cho vay



lát sắn sượng cõng hạt cơm nhẹ quá

không còn răng đành mấy hạt cơm thôi

bụng mẹ đói nhưng cau trầu ấm miệng

bảy mươi năm đậm nhạt cũng quen rồi



nơi quê người mỗi lần con cúng mẹ

trên mâm cơm luôn có đĩa cau trầu

nhìn vôi trắng con nhớ vầng tóc bạc

mất mẹ hiền đời dồn dập thương đau.

( các trang 13O, 131)




     Bây giờ xin nói về nhân sinh quan trong thi tập Ru người ru đời.  Nhân sinh quan chỉ nhắm vào ý tưởng của con người. Còn tư tưởng thì nhắm vào cái sâu xa của triết học và tôn giáo. Văn chương tư tưởng trong số nhà văn ở quốc nội và ở hải ngoại của chúng ta quá ít oi. Xin kể : Vũ Khắc Khoan trong cuốn tập truyệnThần tháp rùa và vở kịch Thành-cát-tư-hản, Nghiêm Xuân Hồng trong Trang tôn kinh huyền hoặc, Thân Thị Ngọc Quế trong thi tập Đường lên đỉnh biếc, Giọt nước cành sen, Như Chi trong thi tập Thơ Hiền  (tên cô là Lê Thị Hiền). Trong hai tác phẩm tập truyện và vở kịch, Vũ Khắc Khoan nói về lẽ sống chết, về tham vọng của con người có quyền lực qua những suy niệm bi quan yếm thế.  Qua Trang tôn kinh huyền hoặc, Nghiêm Xuân Hồng sự thành lập cõi tam thiên đại thiên quốc độ. Còn Thân thị Ngọc Quế và Như Chi đem Phật pháp vào thi ca.

      Còn thi tập Ru người ru đời với những bài có nhiều bài hiển lộ những nhân sinh quan gồm có bài Trăn trở :



tóc nhuộm trắng nhưng hồn còn xanh ngát

tuổi xuân ơi ngày tháng trốn về đâu

nghĩa sông núi gởi bên trời lưu lạc

ai mơ chi khanh tướng với công hầu



vàng đôi mắt đợi chốn tình mòn mỏi

nhìn én về đan dệt những mùa xuân

như dòng chảy ập xuống đầy dấu hỏi

tưởng bọt bèo không đắm nổi gian truân



trên bước lỡ nửa đời cùng gió bão.

người về đâu quay quắt lối hẹn hò

con sóng lớn nhấn chìm bao mộng ảo

gót khua buồn qua những nẻo quanh co



như con sáo biếng lười không tiếng hót

mộng nghìn đêm trả hết  thuở xuân thì

người có phải là muôn lời mật ngọt

dành riêng mình một ngõ dấu chân đi



vẫn còn đó những mắt chờ vô vọng-

nắng và mưa mang nặng dấu luân hồi

ngày đã lụn che khung trời lạnh cóng

chút hương nào đậm nhạt chốn xa xôi.

(các trang 34, 35)



      Bài thơ nầy có ngôn ngữ úp mở… rất thơ, rất giàu sang ý tình. Chúng ta dù không hiểu thấu các điều tác giả nói. Nhưng chúng ta biết bài thơ đến mọi lớp người bằng một thế giới riêng, một tình cảm riêng để tuôn tràn cảm xúc.  Chúng ta đều biết tác giả không hạnh phúc . Cuộc đời của  anh không đáp ứng với nguyện vọng của anh. Mộng lớn mộng nhỏ của anh bị thực tế phũ phàng vùi lấp. Đây là một bài bi ca (poème saturnien) Trớ trêu thay khi mình không đối diện với chính mình để mình rõ con đường nào mình phải đi, để thấy viễn  ảnh và tương lai mình ra sao, để mình tìm chút hy vọng. Mình thấy cô đơn lạc lỏng. Bài thơ Giấu niềm riêng có những đoạn cho chúng ta thấy nỗi niềm bi quan của thi sĩ :



trên sóng đời đôi tay chèo mỏi mệt

ta phù du theo tiếng gọi đăng trình

mỗi chặng đường ngỡ ngàng khi ngó lại

vết chân buồn rơi rụng kiếp nhân sinh



cùng bằng hữu một tấm lòng rực rỡ

đâu tiếc chi giọt máu ngọt phù sa

mơ tuổi trẻ cùng phơi lòng trinh bạch

vì non sông ru niệm khúc quê nhà.

(trang 158)



      Tôi mang máng nhớ thi sĩ Khalil Gibran có khuyên các nhà thơ : Hãy dùng cây bút ánh sáng / dùng tấm lòng ánh sáng/ để viết bày thơ ánh sáng. Nhưng phần đông chúng ta thường nghĩ rằng các nhà thơ của chúng ta đều làm thơ buồn, thơ không buồn thì người sáng tác chưa phải là thi sĩ. Có phải đương sự quá vội vàng suy tư như thế chăng. Thi tập Ru người ru đời  hầu như không có bài vui nào. Xin cùng đọc bài thơ Ta và sóng:



ngày tĩnh lặng bóng thời gian rụng xuống

người bỏ đi mây nước cũng vô tâm

nào khắc khoải lạnh lùng dẫu muộn

có còn chăng mùi hương cũ âm thầm



buông nỗi nhớ lạc loài trong gió

để bềnh bồng mất dấu lối mòn xưa

chút hương cũ dành cho người ở đó

kẻ bên trời hiu hắt ánh trăng thưa



vẫn tiếng gọi vọng về từ biển

sóng biển mênh mông con sóng về đâu

vẫn tiếng gọi rơi chìm vô vọng

biển cùng ta thinh lặng cúi đầu.

.

.   .

      Sau hết, những bài thơ tình trong thi tập Ru người ru đời. Chưa chắc  người yêu của thi sĩ là giai nhân tố nữ hay là kiều nga mỹ nhân. Chúng ta chỉ biết cô ta đã nhóm trong tim thi sĩ ngọn lửa tình sáng rực.  Nhưng cô ta vì cớ nầy hay cớ khác chia biệt cùng chàng để chàng nhỏ lệ trong thơ. Xin cùng đọc bài thơ Mộng ảo :



chim vỗ cánh mang đầy bao nỗi nhớ

bóng mây xa theo gió gọi mây ngàn

em ở đó sao chừng xa vời vợi

những dòng thơ lay lắt bóng trăng tan

thuyền đợi sóng vỗ về âm điệu cũ

dấu chân xưa in lối ngõ hoa vàng

đêm trăn trở ru từng cơn mộng ảo

chút lạnh nào se sắt gió trường giang

tìm đáy cốc nỗi buồn tan giọt rượu

hồn bỗng trôi theo bóng nguyệt mơ màng.



      Mùa có xuân, hạ, thu, đông. Nhưng mùa thu trong văn chương miền Bắc có nước trong trăng sáng, có hoa cúc thịnh phóng trong tiết giao mùa. Nhưng mùa thu bên Trung Hoa thuở xa xưa là mùa hành quyết các tột nhân. Và mùa thu gợi cho Mạc thi nhân một mối sầu chia biệt. Xin cùng đọc Lại chờ thu :



ta đứng giữa mù thu chờ đợi

nắng trên cao lấp lánh theo dòng

gió reo trên lá nghe vời vợi

những khúc tình xưa rót thật trong



thu đi năm ngoái vàng hoa cúc

nửa gối sầu lên đưa tiển nhau

em khóc cho hồn ta gổ mục

còn chi trao gửi đến em đâu.



ta nhìn ly rượu hồn thêm đắng

không uống mà say với ngẩn ngơ

em bước trong hồn ta chết lặng

đường xa trước mặt, nổi ơ thờ



thu đi năm ngoái dường xa lắc

ta đếm từng trăng chút võ vàng

trăng cũng bập bềnh soi vằng vặc

để ngờ chưa khuyết bóng thu sang



ta đứng chờ thu hay đợi em

ngày qua bỏ lại chút âm thầm

thu chưa vàng lá sầu như rụng

không gió may về vẫn lạnh căm.

(các trang 116, 117)



       Các bạn độc giả đứng tuổi thích gợi lại mối tình sinh viên hay mối tình học sinh trong bài thơ, trong ca khúc, Mạc Phương Đình đâu có quên thời thơ mộng của các bạn đâu. Đây nầy bài thơ Hình bóng xưa với các trang 118, 119.



em bước nhỏ ngọt ngào trăng mười sáu

dấu xuân xanh trong nhịp gót sen hồng

nơi bờ giậu, hoa cuối mùa nghiêng xuống

con sáo ngừng giọng hót ở bên sông



gió âu yếm dịu vờn trên mái tóc

rung làn mây óng ả tuổi nhung tơ

đôi mắt biếc mềm như hơi thở nhẹ

và bâng khâng như một nỗi mong chờ



ôm chiếc cặp, tương lai em dấu kín

ngẩng trông lên hoa phượng nở trên đầu

nắng mùa hè xoa chút hồng đôi má

khoé môi chờ dịu ngọt với ngàn câu



ta bắt gặp ngày xưa qua vóc dáng

em thơ ngây nhịp guốc trước sân trường

bao kỷ niệm của một thời áo trắng

vẫn đậm đà bao nỗi nhớ, niềm thương



xin được giữ chút hồn nhiên thơ dại

để mang theo trên những nẽo đường đời

hoa vẫn nở dẫu tháng ngày khó nhọc

lòng vẫn vui cùng sương gió em ơi.

(các trang 118 , 119)




      Thi tập Ru người ru đời  của  Mạc Phương Đình với đề tài gần gũi với bạn đọc. Chúng ta  gặp những đoạn đời gian truân khổ ải của tác giả như :  lòng yêu kính mẹ hiền, xa quê hương, lưu lạc xứ người, tình yêu lứa đôi  tha thiết nhưng không hạnh phúc về sau.

      Ý thơ của anh bình thường nhưng không tầm thường. Đó là sự tha thiết chân thành, không ngụy trang tâm trạng cầu kỳ bằng những hoa hòe hoa sói.  Điều đáng nói là anh tìm một ngôn ngữ rất thơ. Đa số nhà thơ làm những bài   thơ với tình ý trống trải ; chữ nghĩa cũ mèm, thiếu sự canh tân, thiếu sự sáng tạo. Hồi tiền chiến Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu và Huy Cận đã tìm ngôn ngữ thơ riêng biệt cho mình. Ngôn ngữ đó không quá hũ nút như thơ của nhóm Xuân Thu Nhã Tập, như thơ của Bùi Giáng, như thơ của Phạm Công Thiện. Thơ của Mạc Phương Đình gồm những ngôn từ huê dạng, tuy có kiến trúc hơi lạ, nhưng vẫn cho độc giả hiểu thấu để cho tâm tình giữa anh và độc giả cảm thông nhau, để cho đôi bên được thăng hoa vào một tình ý đậm đà.

Không có nhận xét nào: